| | Dân ca Quan họ: di sản đặc sắc của vùng Kinh Bắc | | Cách đây ít lâu, giữa những ngày thu dấu ấn, ngày 30 tháng 9 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ tư của Uỷ ban liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ văn hoá phi vật thể đã tuyên bố công nhận Dân ca Quan họ của Việt Nam là di sản phi vật thể thế giới. Niềm vinh dự này không chỉ của cộng đồng dân cư vùng Kinh Bắc mà còn của đồng bào cả nước, bởi đây là di sản đại diện nhân loại thứ ba của Việt Nam sau nhã nhạc cung đình Huế và cồng chiêng Tây Nguyên được Liên Hợp quốc công nhận.Cội nguồn của dân ca quan họQuan họ là một loại hình dân ca rất phong phú về giai điệu. Đến nay, các ý kiến về nguồn gốc và thời điểm ra đời của Dân ca Quan họ vẫn còn rất khác nhau. Nhưng chúng tôi thiên về ý kiến của một nhà nghiên cứu văn học dân gian nổi tiếng cho rằng, Dân ca Quan họ bắt nguồn từ châu Cổ Pháp (Đình Bảng) quê hương của vua Lý Công Uẩn. Cứ mỗi khi vua về thăm quê (ở châu Cổ Pháp) thì những người trong họ Lý, mà người đương thời gọi là “quan viên họ Lý” đều đến ly cung và hát những câu hát dân ca mà nhân dân trong vùng thường hát để mừng nhà vua. Từ đó, nhân dân gọi những câu dân ca ấy là hát Quan họ. Cái hay, cái đẹp của hát quan họ Trong nền văn học nghệ thuật dân gian Việt Nam, Dân ca Quan họ là một loại dân ca đặc sắc cả về âm nhạc và văn chương. Hát Quan họ là một lối hát đòi hỏi luyện tập công phu và có tính tập thể với những lề lối, quy định chặt chẽ, trở thành phong cách, được thực hiện nghiêm ngặt từ tổ chức đến hình thức diễn xướng. Lề lối của các bài hát Quan họ thường được hát ở nhịp độ chậm, bài bản, có nhiều tiếng đệm, lời phụ. Người hát những bài hát Quan họ lề lối phải biết kỹ thuật hát vang, nền, nảy, ngắt, rớt... Vì thế, Quan họ cổ không cần nhạc đệm, không cần tăng âm và micrô nhưng vẫn vang, người nghe dễ dàng nghe được dù là trong lễ hội đông người. Ngày nay, tuy vẫn còn những nghệ nhân có thể trình diễn Quan họ cổ nguyên bản, không cần nhạc đệm, không cần micrô, nhưng Quan họ đã, đang phát triển theo chiều hướng hiện đại. Trên thực tế, người dân Việt Nam biết đến Quan họ hiện đại nhiều hơn là Quan họ cổ.Người vùng Kinh Bắc, từ già đến trẻ ai cũng hát được một vài làn điệu Quan họ. Người chơi Quan họ sành điệu không chỉ hát hay, hát được nhiều làn điệu mà phải hát được nhiều bài lời cổ. Người Kinh Bắc hát dân ca Quan họ, chơi Quan họ không những trong dịp lễ hội mà cả trong khi lao động, trong các đám cưới, đám giỗ chạp... Mỗi khi lễ hội mùa Xuân, các làn điệu Quan họ với những câu hát trữ tình làm say đắm lòng người Quan họ và khách thập phương ngân lên trong không gian văn hoá Quan họ. Lời ca, làn điệu Quan họ gắn liền quá trình phát triển của đời sống xã hội nhằm nâng cao và tôn vinh các mối quan hệ cộng đồng và giao lưu văn hoá. Vì lẽ đó, sinh hoạt Quan họ thường gắn với sinh hoạt hội hè, ca hát, giao lưu; gắn với đời sống tình cảm, tinh thần của người lao động biết hướng tới cái đẹp. Dân ca Quan họ có nhiều nét độc đáo và được chia thành hai loại:Quan họ truyền thống, vùng Kinh Bắc (gồm cả Bắc Ninh và Bắc Giang), có tất cả 49 làng duy trì được lối chơi văn hoá Quan họ truyền thống (44 làng ở Bắc Ninh, 5 làng ở Bắc Giang), với hàng ngàn bài hát cổ mộc mạc, dân giã mang nét đẹp riêng vừa thiêng liêng, vừa cổ xưa mà rất Việt Nam. Kho băng ghi âm Quan họ cổ do các nghệ nhân ở các làng Quan họ hát hiện vẫn được lưu tại Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh. Quan họ truyền thống chủ yếu hát đôi hoặc hát tập thể giữa liền anh và liền chị vào dịp hội Xuân ở các làng quê, không có khán giả, người trình diễn đồng thời là người thưởng thức.Quan họ mới, còn được gọi là hát Quan họ, là hình thức biểu diễn (hát) Quan họ chủ yếu trên sân khấu hoặc trong sinh hoạt cộng đồng như Tết, đầu Xuân, lễ hội, du lịch... Từ sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng (năm 1954), các làn điệu Quan họ được khai thác, đặt thành lời mới thành ca cảnh trên sân khấu hoặc phát trên sóng phát thanh, truyền hình. Trên thực tế Quan họ mới được trình diễn vào bất kỳ ngày nào trong năm và khi hát luôn có khán, thính giả, người hát không chỉ trao đổi tình cảm với nhau mà còn trao đổi tình cảm với khán, thính giả. Phạm vi phổ cập của Quan họ mới không chỉ ở làng xã mà vươn đến khán, thính giả ở khắp cả trong và ngoài nước.Các hình thức hát Quan họ Nét đặc trưng của hát Quan họ chính là hát đối đáp giữa một bên là liền anh và một bên là liền chị trong không gian văn hoá Quan họ. Hình thức hát Quan họ cũng rất phong phú gồm: - Hát hội là hình thức ca hát chủ yếu ở hội, hát để vui Xuân, vui hội, vui bầu, vui bạn. - Hát canh, thường diễn ra vào mùa xuân hoặc mùa thu, mùa của hội chùa, hội đình làng giữa các nhóm quan họ nam và nữ mời nhau đến nhà hát một canh cho vui bàu bạn, vui xóm làng, canh hát thường kéo dài từ bảy, tám giờ tối đến hai, ba giờ sáng, thậm chí hai, ba ngày đêm.- Hát lễ thờ, khi các Quan họ rủ nhau đến hội làng thì mỗi nhóm thường sắm sửa trầu, cau, hương, nến, hoa quả để vào đình làm lễ thánh và cũng để trình dân.- Hát cầu đảo (cầu mưa), người Quan họ cũng như đông đảo cư dân Quan họ dùng tiếng hát để cầu mong trời cao và thần linh cho mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi... - Hát kết chạ (kết nghĩa), các làng đã kết chạ anh chạ em, vào dịp có hội lễ, chạ anh, chạ em thường mời nhau sang dự hội, ca vui với những canh thâu đêm suốt sáng, xong cuộc hát Quan họ kết chạ này mời nhau toả đi hát tự do ở trong hội...- Hát giải hạn, sau khi thực hiện xong nghi thức cúng lễ giải hạn, gia đình thường mời từ 4 đến 6 nhóm Quan họ vừa nam, vừa nữ đến nhà ca một đêm Quan họ với niềm tin cái may sẽ đến, cái rủi sẽ qua.- Hát mừng, hát nhân ngày vui, mở tiệc khao (khánh thành nhà, mừng thọ, con em đỗ đạt...), ngoài nghi lễ mời họ hàng, dân làng đến ăn mừng thì trong Quan họ thường mời những canh hát Quan họ của nhiều nhóm đến hát, cuộc vui cũng có thể kéo dài đến vài ngày...Cần khẳng định, hát Quan họ là nét đẹp độc đáo trong sinh hoạt văn hoá cộng đồng của người Kinh Bắc, không những thể hiện mối quan hệ ứng xử trong một cộng đồng làng xóm, mà còn là phương thức tương giao giữa các xã với nhau trên cơ sở lấy chữ “Lễ” làm trọng tâm, lấy chữ “Nghĩa” làm động lực trong mọi mối quan hệ giữa con người với nhau. Người chơi Quan họ luôn thể hiện sự lịch lãm, nền nã, duyên dáng trong cách ăn mặc, lời nói, dáng đi. Khi hát Quan họ, nam thường mặc áo dài vải the năm thân, khăn xếp, che ô đen; nữ mặc áo mớ ba mớ bảy, cầm nón quai thao che nửa mặt, vừa ý tứ, vừa để âm thanh khi hát trở nên ấm hơn, vang hơn. Vừa hát người Quan họ vừa mời nhau và mời khách những miếng trầu têm cánh phượng, thấm đượm giá trị nhân văn.Giữ gìn và bảo tồn văn hóa quan họViệc giữ gìn, bảo tồn văn hoá Quan họ đã được các cơ quan hữu quan quan tâm bằng những việc làm thiết thực, cụ thể. Việc tổ chức Hội Lim-ngày hội lớn nhất hằng năm của làng Quan họ diễn ra từ ngày 13 đến 15 tháng Giêng (âm lịch) là một hoạt động thường xuyên nhằm tôn vinh loại hình dân ca độc đáo này. Đến hẹn lại lên, các liền anh, liền chị đại diện cho 49 làng Quan họ cùng du khách bốn phương-những người yêu Quan họ lại hội tụ về đây thưởng ngoạn thi tài và thưởng thức văn hoá Quan họ. Những năm gần đây, các cấp chính quyền tỉnh Bắc Ninh thường xuyên đẩy mạnh các hình thức tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá về những giá trị đặc sắc của Dân ca Quan họ dưới nhiều hình thức, coi trọng vai trò truyền dạy của các nghệ nhân, quan tâm nhu cầu sinh hoạt văn hoá Quan họ trong cộng đồng. UBND tỉnh đã ban hành quy định về công nhận và tôn vinh các nghệ nhân Dân ca Quan họ Bắc Ninh nhằm động viên, khích lệ các nghệ nhân làm tốt vai trò lưu giữ và truyền dạy Dân ca Quan họ trong cộng đồng; chỉ đạo nâng cao chất lượng, quy mô các sinh hoạt văn hoá Quan họ như tổ chức lễ hội, liên hoan văn nghệ, hội diễn hát Quan họ từ cơ sở đến tỉnh; nghiên cứu, biên soạn và phát hành các ấn phẩm về những giá trị đặc sắc của Dân ca Quan họ đến công chúng. Đồng thời nâng cao chất lượng hoạt động của Đoàn Dân ca Quan họ làm nòng cốt trong các hoạt động thể nghiệm, trình diễn, giới thiệu Dân ca Quan họ... Đó chính là biện pháp để chung tay bảo tồn, phát huy giá trị của di sản văn hoá thế giới-Dân ca Quan họ Bắc Ninh.Nguyễn Công Huyên |
Thực trạng và một số giải pháp nhằm quản lý, sử dụng đất đai có hiệu quả ở Tây Nguyên